Tin tức Giao Thủy

Đền chùa Diêm Điền Thị Trấn Ngô Đồng – Giao Thủy

Đăng ngày:

Đền chùa Diêm Điền xã Bình Hòa

Đền Diêm Điền thờ thành hoàng và các vị tổ thành lập làng.

 

 

Vào thời vua Lê Kính Tông (1600-1619) có 10 gia đình mang họ khác nhau, cùng kết nghĩa bạn bè, rời quê hương Thiên Bản- Vụ Bản- Nam Định về trang Hà Cát huyện Giao Thủy- Phủ Thiên Trường- Trấn Sơn Nam khai hoang lấn biển. Lúc đầu họ dựng lều trên cồn cát để ở, sinh sống bằng nghề làm muối nên làng có tên là “Diêm Điền” nghĩa là cánh đồng muối. Cùng với sự phát triển của làng xã, người dân Diêm Điền đã biết cải tạo, dẫn nước ngọt về thau chua, rửa mặn ruộng đồng và trồng được các loại lúa Sung, Lúa Gìơ, lúa hoa Dâu, là những loại lúa thân cao, có sức chịu đựng chua mặn, ngập úng.

Điều kiện làm ăn ngày càng thuận lợi, “đất lành chim đậu” nhân dân các nơi đổ về về đây nhập cư càng nhiều. Đến năm 1614 quan đại thần Lưu Đình Chất làm dinh điền chánh sứ tại vùng biển Giao Thủy xuất tiền đắp đê, lập ra 12 xã, trong đó có Diêm Điền. Khi ấy nhân dân trong xã xây dựng đền, rước chân nhang thành hoàng quê gốc của 10 ông tổ là cụ Lê Đình Hương- một tướng tiên phong có công dẹp giặc Thục dưới thời Hùng Duệ Vương về thờ làm thành hoàng làng mới Diêm Điền.

Ngoài ra để nhớ ơn 10 vị tổ các họ: Đoàn, Lê, Trần, Nguyễn, Phạm, Đặng, Hoàng, Hà, Bùi, Vũ, nhân dân địa phương đặt thần vị phối thờ ở trong đền. Năm 1675, 10 ông tổ được phong tước bá và ban mỹ tự để thờ là: “Phụng thiên khai cơ chiêu dân lập ấp bảo thành trợ thuận hoằng nhân giáo nghĩa” có nghĩa là: “Vâng mệnh trời khởi xướng việc chiêu dân lập làng, giữ gìn công việc thuận lợi, khuếch trương việc nhân nghĩa dạy dỗ nhân dân”. Hiện nay còn đôi câu đối nhấn tại hiên tiền đường ca ngợi công lao của các vị tổ:

 

 

“Hoành hải hữu đê lưu sứ thủy
Diêm Điền lập ấp thạp công tiên”
(Đê ngang được đắp do quan Dinh Điền sứ
Lập ấp Diêm Điền nhờ công 10 vị tổ)

Ngôi đền ban đầu làm bằng tranh tre, sau dần được kiến thiết mở mang uy nghi hơn. Đến thế kỷ XIX đền được xây dựng bằng gỗ theo kiểu chữ “Đinh”.
Tòa tiền đường gồm có 5 gian, 2 gian ngoài cùng được xây vít có tạo cửa sổ để thông thoáng, 3 gian giữa tạo của ra vào, cánh cửa gỗ kiểu thượng song hạ bàn. Hai đầu hồi xây bít đốc, mái lợp ngói nam. Tiền đường gồm có 4 bộ vì, gánh đỡ mỗi bộ vì là 4 cây cột gỗ lim đường kính 0.3 m, đặt chân trên tảng đá xanh. Các vì nóc được làm theo kiểu ván mê, chạm khắc hổ phù, rồng bay trong mây.

 

 

 

Vì ách chạm tứ linh. Trên các câu đầu, các bẩy ngoài đường chỉ đơn, chỉ kép còn nhấn tỉa những cành lá lật mềm mại, khiến cho từng bộ phận tách riêng ra nhưng không đơn điệu và khi hòa nhập trong một tổng thể thì nó lại càng hỗ trợ nâng cao gia trị cho cả công trình. Bốn gian cung cấm của đền được nối với tiền đường bằng hệ thống cửa bức bàn, bộ vì được làm theo kiểu ván mê, các mảng chạm khắc kỹ thuật tinh xảo với đề tài lưỡng long chầu nguyệt, mai hóa…đặc biệt là hình ảnh tứ linh sinh động ở ván mê: rồng bay lượn trong mây, phượng đang tung cánh, rùa ly vừa chạy vừa ngoái cổ nhìn lại nhau.

Họa tiết trang trí đền làng Diêm Điền

 

Chùa Diêm Điền được nhân dân xây dựng sau khi dựng đền. Chùa được làm theo kiểu chữ “đinh” bái đường 5 gian, thượng điện 3 gian. Hệ thống cột và tường bao quanh được xây bằng gạch, mái lợp ngói nam. Nhà tổ nằm lui về phía sau chùa, gồm 5 gian thiết kế theo kiểu chồng diêm với các bờ bảng, mái cong, các con kìm, kẻ góc đầu đao được gia công khá công phu, tinh xảo.

Di tích Đền chùa Diêm Điền có nhiều mối liên quan đến phong trào cách mạng của địa phương, đặc biệt trong thời kỳ khởi nghĩa giành chính quyền. Đây là địa điểm cho các đội tự vệ địa phương luyện tập quân sự. Tại đền có hầm bí mật cất giữu tài liệu, che chở, bảo vệ cán bộ cách mạng hoạt động lâu dài.

Ngày nay, người dân Diêm Điền xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, trù phú hơn. Để tưởng nhớ buổi ban đầu các ông tổ bắt tay khai khẩn vùng đất này, hàng năm vào ngày 16/3 (âm lịch) dân làng tổ chức lễ hội truyền thống giáo dục con cháu ghi nhớ công đức tổ tiên.

 

 

 

 

Đền chùa Diêm Điền đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.


 

 

Bình luận